Đề thi học sinh giỏi : Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình

Đề thi học sinh giỏi: Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình

Hướng dẫn

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT HÀ TRUNG

ĐỀ CHÍNH THỨC

(Đề thi gồm có 01 trang)

ĐỀ THI KSCL ĐỘI TUYỂN HỌC SINH GIỎI

NĂM HỌC 2018 – 2019

Môn thi: VĂN

Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể thời gian giao đề)

Ngày thi 18 tháng 10 năm 2018.

  1. Đọc – hiểu( 6,0 điểm):

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

BÔNG SÚNG VÀ SIÊU BÃO

(Thanh Thảo)

bông súng tím mọc lên từ nước

bão Haiyan mọc lên từ biển

bão Haiyan cho tôi kinh hoàng

bông súng tím cho tôi bình yên

rồi có thể người ta quên mà nhớ

trong siêu bão một bông súng nở

bông súng ấy màu tím

bão Haiyan màu gì?

(Báo Thanh niên Chủ nhật, 17/11/2013)

Câu 1: Nêu phương thức biểu đạt chính của văn bản.

Câu 2: Nêu ngắn gọn ý nghĩa tượng trưng của hai hình ảnh “bông súng” và “siêu bão” trong bài thơ trên? Việc sắp đặt hai hình ảnh “bông súng” và “siêu bão” như trong bài thơ có ý nghĩa gì?

Câu 3: Ý nghĩa của việc dùng câu hỏi cuối bài thơ?

Câu 4: Hãy rút ra thông điệp từ câu thơ “trong siêu bão một bông súng nở”.

  1. Làm văn:

Câu 1: (4,0 điểm)

Từ gợi ý của bài thơ trên và những trải nghiệm thực tế, anh/chị hãy viết một bài văn (khoảng 400 chữ) nói lên suy nghĩ của mình về chủ đề: Bình yên là hạnh phúc.

Câu 2: (10,0 điểm)

“ Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Nhưng….tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa thì cũng không thể vượt ra ngoài các quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản”.

(Lã Nguyên – Về tác gia và tác phẩm, NXBGD)

Anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương và bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi:

Cây chuối

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm

Đầy buồng lạ, màu thâu đêm

Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu, gượng mở xem

( Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976)

…… Hết……

HƯỚNG DẪN CHẤM

Phần Câu Ý Yêu cầu cần đạt Điểm
I Đọc – Hiểu: 6,0
1 Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm 1,0
2 – “Siêu báo” tượng trưng cho những tai ương, bất trắc; sự huỷ diệt.

– “Bông súng” tượng trưng cho cái đẹp, sự sống và bình yên.

– “Siêu báo” và “Bông súng” được sắp đặt thành cặp hình ảnh song song, đối xứng, đảo đối xuyên suốt dọc bài thơ và ở từng cặp câu thơ, có tác dụng:

+) Làm cho kết cấu bài thơ cân đối

+) Làm nổi bật ý tứ của bài thơ:

Cuộc sống phong phú, đa dạng, luôn tồn tại song hành và có sự chuyển hoá, diễn biến khó lường của bình yên và bão tố, cái đẹp và sự huỷ diệt, sự sống và cái chết…

Niềm tin tưởng mãnh liệt vào sự tốt đẹp của cuộc sống (trong siêu bão một bông súng nở)

2,0
3 Ý nghĩa của việc dùng câu hỏi tu từ cuối bài thơ:

– Khắc sâu ý: Bão Haiyan hay là những bất trắc, tai ương … không có màu sắc, hình thù cụ thể nên rất khó lường.

– Diễn tả những băn khoăn, trăn trở của tác giả, đồng thời cảnh báo tai ương, bất trắc trong cuộc sống là khôn lường.

– Tạo ra cái kết mở, có tính đối thoại cho bài thơ.

1,0
4 – HS rút ra thông điệp và lý giải một cách hợp lý. Ví dụ:

+) Sự sống nảy sinh từ cái chết.

+) Sống là dũng cảm đương đầu với những khó khăn, thử thách

2,0
II Làm văn: 14,0
1 Từ gợi ý của bài thơ trên và những trải nghiệm thực tế, anh/chị hãy viết một bài văn (khoảng 400 chữ) nói lên suy nghĩ của mình về chủ đề: Bình yên là hạnh phúc. 4,0
Yêu cầu:

Học sinh biết viết thành một đoạn văn nghị luận bàn về chủ đề “Bình yên là hạnh phúc” với lập luận rõ ràng và ý tứ phong phú, hợp lí

– Có ý thức liên hệ với gợi ý của bài thơ ở phần đọc hiểu, kết hợp với những trải nghiệm cá nhân

– Không viết đúng thành đoạn văn trừ 0.5 điểm

– Chấp nhận những cách triển khai khác nhau miễn sao hợp lí. Sau đây là một gợi ý:

0,5
1 – Giải thích: Bình yên là sự thanh bình, yên ấm, sự ổn định không tai ương bất trắc. Bình yên còn được hiểu như sự an nhiên tự tại của tâm hồn ngay trong bão tố (bông súng nở trong siêu bão) -> khi đồng nhất Bình yên là hạnh phúc là muốn nhấn mạnh vào ý nghĩa, giá trị to lớn của sự bình yên với hạnh phúc của con người. 0,5
2 – Lí giải:

+ Bình yên là cơ sở để làm nên hạnh phúc của mỗi chúng ta: mỗi người được sống với tâm hồn thanh thản, an nhiên với cuộc sống an lành, ổn định và phát triển …

+ Bình yên là thước đo hạnh phúc, là mục đích phấn đấu, là giá trị, là lợi thế, là sức hấp dẫn… của mỗi quốc gia, dân tộc. Khó có hạnh phúc nếu như cuộc sống cuộc sống, và tâm hồn của chúng ta thiếu sự bình yên

+ Bình yên cũng như hạnh phúc của con người đôi khi mong manh (bông súng trong siêu bão), để có sự bình yên – hạnh phúc đôi khi chúng ta phải sẵn sàng hi sinh

+ Phê phán những kẻ gây bất ổn, phá vỡ sự bình yên – hạnh phúc của người khác để trục lợi cá nhân. Ngược lại phê phán những kẻ tìm kiếm sự bình yên bằng một cuộc sống tẻ nhạt

0,75

0,75

0,5

0,5

3 – Nhận thức, hành động: Bình yên là hạnh phúc nhưng không đồng nghĩa với an phận thủ thường, ngại va chạm. Cần trân trọng, bảo vệ bình yên như là một trong những hạnh phúc lớn nhất của con người; tích cực xây dựng một cuộc sống thanh bình bằng những việc làm cụ thể… 0,5
2 “ Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Nhưng….tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa thì cũng không thể vượt ra ngoài các quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản”.

(Lã Nguyên – Về tác gia và tác phẩm, NXBGD)

Anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương và bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi

10,0
Yêu cầu về kĩ năng:

– HS biết cách làm bài văn nghị luận văn học

; bố cục và cách trình bày hợp lí.

– Hệ thống ý (luận điểm) rõ ràng, được triển khai tốt.

– Diễn đạt suôn sẻ; mắc ít lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.

Yêu cầu về kiến thức:

Học sinh có thể có những suy nghĩ và cách trình bày khác nhau nhưng về cơ bản

cần hướng đến những nội dung chủ yếu sau:

1,0
1 Giải thích:

– Con đường riêng: chỉ cách thức khác nhau trong lao động sáng tạo văn học nghệ thuật của người nghệ sĩ.

– Quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản: là những giá trị văn học (nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ….) có khả năng nhân đạo hóa con người. Đó là bản chất mang ý nghĩa nhân văn muôn đời của văn học.

– Ý kiến khẳng định vai trò của hướng đi riêng trong khám phá, sáng tạo nhưng đích đến muôn đời của văn chương vẫn là chân thiện mĩ, nhân bản.

1,0
2 Bàn luận:

– Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình, bởi vì:

+ Đặc trưng của văn học là lĩnh vực sáng tạo. Đứng trước hiện thực phong phú, mỗi nghệ sĩ có những cảm xúc, suy ngẫm, lí giải khác nhau, chọn những mảng đề tài khác nhau, cách xử lí khác nhau.

+ Lựa chọn con đường riêng sẽ tạo ra sự đa dạng, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật, khẳng định được vị trí, phong cách của nhà văn.

– Tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa cũng không thể vượt ra ngoài quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản, bởi vì:

+ Chân thiện mĩ, nhân bản là đích hướng đến, tâm điểm của mọi khám phá sáng tạo nghệ thuật.

+ Quy luật chân thiện mĩ, nhân bản có khả năng soi rọi cho người đọc ánh sáng của lí tưởng, khơi gợi tình yêu cuộc sống, nuôi dưỡng sự đồng cảm, bồi đắp và thanh lọc tâm hồn con người….làm cho người gần người hơn.

1,0
3 Chứng minh:
a) Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương:

– Nói đến thơ trào phúng không ai có thể quên Tú Xương, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. “Thương vợ” là bài thơ tiêu biểu của Trần Tế Xương mà ở đó vừa thể hiện một cáh nhìn, một lối đi riêng, lại vừa nằm trong quy luật chung của cái Chân, Thiện, Mỹ; quy luật nhân bản.

– Yêu thương con người mà đặc biệt là yêu thương những người thân yêu ruột thịt vốn là truyền thống của người Việt từ xưa. Tuy nhiên ở thời phong kiến do quan niệm trọng nam khinh nữ, quan niệm tình cảm vợ chồng là chuyện riêng tư nên các tác giả thường ngại bộc lộ tình cảm với vợ một cách trực tiếp qua giấy trắng mực đen, qua văn chương thì lại càng ít. Tú Xương, đã không ngần ngại nói lên điều đó.

Tú Xương khi viết về đề tài người phụ nữ

– Viết về vợ nhưng thực chất Tú Xương đã có phát hiện và cảm thông với nỗi khổ của người phụ nữ. Đó là nỗi khổ vì cuộc sống cơ cực, vất vả gánh vác lo toan chèo chống cả một gia đình mà thiếu sự đồng cảm sẻ chia về trách nhiệm. Nhà thơ khẳng định phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ đó làtấm lòng khoan dung không nề hà trách nhiệm với gia đình dù phải đối diện với những gian lao trong cuộc sống

–Với bài Thương vợ: Tú Xương đã thể hiện cái nhìn của người khác phái – một nhà nho đầy tự trọng và một người đàn ông có tình, có ý thức về trách nhiệm của bản thân. Thế nên, cái nhìn ấy vừa trân trọng vừa xót xa. Qua cái nhìn ấy, chân dung bà Tú hiện lên hoàn chỉnh: từ quan hệ bươn trải với đời, đến quan hệ với gia đình, từ con người của công việc làm ăn đảm đang tháo vát đến con người của đức độ, thảo hiền, đầy tinh thần vị tha, xả kỉ. Cái nhìn đó cho thấy nhân cách nhà nho trong sáng, vị tha của Tú Xương khi ông từ bỏ vẻ cao đạo của thói thường để thấu hiểu cuộc sống đời thường và sẻ chia, cảm thông với người phụ nữ.

b) Bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi:

– Thiên nhiên vốn là đề tài quen thuộc của thi ca trung đại. Với cái nhìn đậm tính ước lệ, thiên nhiên hiện lên trong văn học trung đại với tư cách là chuẩn mực của cái đẹp đạo đức. Các tác giả đã “khoanh vùng” một số loài cây, con xếp vào hàng cao quý như: tùng, trúc, cúc, mai, long, ly, quy, phượng…”Nàng thơ” gần như không chịu hạ cánh xuống hoa cỏ đồng nội. Nguyễn Trãi cũng đến với thiên nhiên nhưng cách nhìn và cảm hứng của ông lại hoàn toàn khác. Nó xuất phát tình yêu và niềm say đối với thiên nhiên nên ông không hề có sự phân biệt đẳng cấp, ngược lại ông còn rất hứng thú với hương đồng gió nội. Cây chuối dân giã, mộc mạc vì thế mà có chỗ đứng trang trọng trong thơ ông.

– Vẻ đẹp mà Nguyễn Trãi phát hiện được ở cây chuối trước hết là vẻ đẹp của sức sống, của tất cả những gì tự nhiên nhất, hồn nhiên nhất như nó vốn có ngoài đời. Cây chuối “bén” hơi xuân đã tốt lại tốt thêm, tràn trề sinh lực; buồng chuối chín toả hương thơm nồng nàn, quyến rũ…

– Vẻ đẹp độc đáo rất riêng mà Nguyễn Trãi phát hiện ở cây chuối là vẻ đẹp lãng mạn, tình tứ. Tàu lá chuối non cuộn tròn được tác giả hình dung như một bức thư tình đang được phong kín, e ấp, giấu bao tình ý bên trong. Còn gió được hình dung như một gã tình nhân đa tình say mê, đắm đuối, đầy khao khát nhưng cũng rất ý tứ, trân trọng, nhẹ nhàng “gượng mở” để khám phá vẻ đẹp của tình yêu.

– Cái mới của Nguyễn Trãi chính là cách nhìn mới, cảm xúc mới so với các tác giả cùng thời nhưng thực chất nó rất đỗi chân thật, gần gũi, đời thường. Nó có vẻ “khác biệt” so với quan niệm thẩm mỹ đương thời nhưng nó vẫn nằm trong quy luật của cái Chân, Thiện, Mỹ; quy luật nhân bản.

1,0

1,0

1,0

1,0

0,5

0,5

0,5

0,5

4 Đánh giá chung:

– Văn học khuyến khích người nghệ sĩ đổi mới, cách tân nhưng cần có sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dấu ấn riêng và giá trị chung.

– Yêu cầu đối với người nghệ sĩ trong sáng tác phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy, phải có sự trải nghiệm sâu sắc, đứng trên lập trường nhân sinh vì con người.

– Cái nhìn độc đáo, sự khám phá riêng của mỗi nhà thơ dù cùng viết về một đề tài chính là bản chất của nghệ thuật đích thực, là yêu cầu nghiệt ngã của sáng tạo văn chương mà chỉ những tài năng chân chính mới đủ sức vượt qua.

1,0
Xem thêm:  Soạn bài: “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)

Theo Taplamvan.edu.vn

Từ khóa tìm kiếm

  • https://taplamvan edu vn/de-thi-học-sinh-giỏi-moi-nghe-si-co-the-den-voi-van-chuong-va-cuoc-doi-bang-con-duong-rieng-cua-minh/