Phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng rất hay

Đề bài: Phân tích bài thơ Tây tiến của nhà thơ Quang Dũng

Bài làm

 Đề tài chiến tranh luôn là một mảnh đất màu mỡ để các nhà thơ nhà văn tìm đến khơi nguồn cảm xúc của bản thân. Đến với mảnh đất ấy, các thi nhân được thoả mãn trong chính tình yêu của mình: yêu quê hương đất nước, yêu những anh vệ quốc quân, yêu những bà mẹ áo nâu vai sờn,… Với tình yêu to lớn ấy, các nhà thơ nhà văn đã dùng những lời hay ý đẹp giản dị mà ca ngợi gửi gắm qua những bài thơ bài văn. Điển hình trong giai đoạn ấy, Quang Dũng – nhà thơ đại diện cho lớp người trí thức cất nỗi lòng tâm tư của ông nói riêng cùng anh em bộ đội nói chung qua bài thơ “ Tây Tiến”.

Bài thơ Tây Tiến được in trong tập “ Mây đầu ô”1986 là nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng về đoàn quân Tây tiến. Tây tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, nhiệm vụ chủ yếu phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Thượng Lào. Lượng lực trong đoàn quân quân phần lớn là học sinh, sinh viên ở Hà Nội. Tuy sống và chiến đấu trong hoàn cảnh thiếu thốn gian khổ nhưng họ vẫn sống lạc quan yêu đời cùng với một tâm hồn kiêu hùng và hào hoa. Nhà thơ Quang Dũng là đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, nhưng ông được lệnh chuyển đi nơi khác. Chính vì thế, vì nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết lên bài thơ với cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ bao trùm lên khắp không gian, trải dài theo thời gian về kỷ niệm hành quân Tây Bắc, tình quân dân, thiên nhiên hùng vĩ, bước tượng đài người lính và lời thề sắc son “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Chia xa Tây Tiến chưa được bao lâu, từ một miền đất mới, nhà thơ Quang Dũng đã cất lên tiếng gọi thiết tha:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Người đọc có thể nhận thấy được câu thơ bảy chữ có bốn chữ là danh từ riêng. “Sông Mã” biểu tượng cho thiên nhiên chiến trường miền Tây. “Tây tiến” biểu tượng cho đoàn quân Tây tiến, là những đồng đội đồng chí thân thương. Tiếng gọi sông Mã, Tây tiến vang lên tha thiết như gọi người thương. Vì thế trong tiếng gọi như đong đầy nỗi nhớ thương không thể kìm nén nổi phải cất lên thành lời. Nỗi nhớ mênh mang bao la lan toả cả không gian thời gian gợi về bao kỷ niệm đầy ăm ắp. Và khúc dạo đầu của nỗi nhờ là nhớ về rừng núi:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Từ “nhớ” được lặp lại gợi một nỗi nhớ da diết. Nỗi nhớ ấy không còn mông lung nhạt nhoà nữa mà hiển hiện thành những hình ảnh qua từ láy “chơi vơi”. Nỗi nhớ trong thi ca, được rất nhiều nhà thơ bày tỏ, với Tố Hữu:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh nỗi nhớ của mình với quân dân Việt Bắc với nỗi nhớ người yêu da diết cháy bỏng khắc khoải nhường nào. Nhưng với, Quang Dũng, nỗi nhớ “chơi vơi” hiện hữu về cả hình ảnh lẫn trạng thái trơ trọi giữa một khoảng trống lớn. Một nỗi nhớ trải dài cả núi rừng Tây Bắc. Chỉ bằng hai câu mở đầu, nhà thơ Quang Dũng đã tấu lên khúc nhạc đầu tràn trề sự nhớ nhung, mở ra cả một bầu trời nỗi nhớ. Và chính với một nỗi nhớ như thế, Quang Dũng đưa chúng ta trở về với những con đường lên Tây Bắc với chiến trường miền Tây năm ấy:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

…Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Chiến trường miền Tây lần lượt hiện ra qua những miền địa danh địa điểm đặc trưng của Tây Bắc: “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch”. Những địa danh ấy nhắc đến đâu phải sự vô tình, đâu phải là dấu mốc trên vạn dặm trường trinh mà những cái tên ấy đã đọng lại trong nỗi nhớ của nhà thơ in hằn trong tâm trí. Nhớ “Sài Khao” là vực sâu thăm thẳm, là cảnh dốc uốn lượn quanh co. Không gian địa hình Tây Bắc được Quang Dũng vẽ bằng thứ ngôn ngữ giàu chất tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” cùng với điệp từ “dốc” kết hợp nghệ thuật đối đã gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh Tây Bắc mịt mù trong màn sương khói, trùng điệp những dốc những đèo, quanh co uốn lượn. Thiên nhiên Tây Bắc không chỉ có sương xa, sự dữ dội của mảnh đất miền Tây còn được mở ra với những thời điểm đêm đêm chiều chiều: “oai linh thác gầm thét”, “cọp trêu người”. Từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” được đặt đầu câu thơ nhấn mạnh vào hai khoảng thời gian ghê rợn nhất, chiều là gió reo thác đổ, đêm lũ cọp dữ trêu người. Nhà thơ Quang Dũng đã khắc hoạ lên không gian và thời gian ở chiến trường Tây Bắc, sự hùng vĩ, dữ dội xa xôi ngút ngàn. Trên phồng nền “sương lấp”, “dốc lên khúc khuỷu”,… sự khó khăn nhường nào, để làm nổi bật lên hình ảnh những người đồng chí đồng đội thân yêu trong nỗi nhớ:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Trải qua những cuộc hành quân biết bao gian khó thiếu thốn cực nhọc, những người lính nhọc nhằn đến mức mệt mỏi. Nhưng không chỉ có thế, những dốc khúc khuỷu, những ngọn núi cao ngất ngưởng và những vực đèo trèo leo biết bao những đồng chí đồng đội của nhà thơ nằm lại ở lưng đèo góc núi. Ngòi bút của nhà thơ Quang Dũng không hề né trách đời sống khắc nghiệt của chiến tranh mà tái hiện chân thực những hình ảnh hy sinh đau đớn này:

Anh bạn dãi dầu không bươc nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Giọng thơ trầm xuống cùng với nỗi đau nghẹn ngào chứa đựng trong đó biết bao tình cảm thương mến. Cảm hứng yêu thương xót xa được nhà thơ tìm đến và diễn tả qua nghệ thuật nói giảm. Nhà thơ Quang Dũng đã không dùng các từ chết ,hy sinh mà thay vào đó là các từ nói giảm nói tránh “không bươc nữa”, “bỏ quên đời” phần nào xoa dịu nỗi đau thương mất mát. Cách nói ấy không chỉ thể hiện sự tài hoa của nhà thơ mà quan trong hơn hết là tinh thần Tây tiến luôn mang theo lý tưởng cao đẹp. Vì thế “không bước nữa” hay “bỏ quên đời” vẫn gục lên súng- một tư thế hy sinh của người lính đẹp biết bao hình ảnh “anh vệ quốc quân”. Chính các anh đã làm nên dáng đứng Việt Nam.

Xem thêm:  Nguyễn Du được xem là "một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn"

Trên con đường hành quân gian khổ ấy, biết bao đồng đội đã nằm xuống trên trang đường hành quân nhưng những bươc chân “Tây tiến” vẫn bước tiếp, vẫn chiếm lĩnh những đỉnh trăng non lộng gió. Thật kỳ diệu hiện về trong ký ức của nhà thơ không chỉ đoàn quân mệt mỏi mà còn hình ảnh rất đỗi kiêu hãnh hào hùng của các anh

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Mũi súng của người chiến binh được nhân hoá tạo nên một tứ thơ mang vẻ đẹp lãng mạn. Hình ảnh thơ vừa diễn tả được độ cao chót vót của những ngọn núi, vừa khẳng định được ý chí và tư thế kiêu hùng của người lính quyết chiến mọi đỉnh cao. Hình ảnh thơ mang đậm chất lính kinh thành, bản lĩnh, kiêu hùng.

Trải dài theo nỗi nhớ, nhà thơ nhớ về chiến trường dữ dội, nhưng những vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng giữa rừng núi cheo leo vẫn hằn sâu trong tâm trí nhà thơ. Tây Bắc đã được nhà thơ Quang Dũng đưa nét bút điểm xuyết mềm mại đẹp đến lạ lùng:

Mường Lát hoa về trong đêm khơi

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu nhớ dùng hầu hết thanh bằng gợi ra vẻ đẹp huyền ảo “nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi như sương như hoa như hồn người”. Nét bút mềm mại, bức trah hư ảo vẽ bằng màu mực nước. “Hoa về” chứ không phải “hoa nở” ẩn hiện trong màn sương đêm, chập chờn, thấp thoáng. “Đêm khơi” nhà thơ không dùng “đêm sương” để thấy được sự nhẹ nhàng trong miền không gian xa ngái ngàn trùng. Nhà thơ Quang Dũng thật tài hoa, tinh tế trong việc chọn lọc ngôn từ để tái hiện trọn vẹn núi rừng Tây Bắc lãng mạn, thơ mộng nhường nào. Trước cảnh đẹp của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, những người lính hành quân mệt mỏi đi nữa cũng dừng chân ngắm nhìn cảnh đẹp hữu tình trươc mắt, sự dịu dàng như một người con gái thiếu nữ. Đứng trên những ngọn đồi cao, các anh phóng tầm mắt ra xa, ngắm bao trọn thiên nhiên vào tầm mắt. Những làn sương giăng kín nơi nơi, bao trùm lên những mái nhà. Đứng trên cao nhìn xuống, cảm giác như những con thuyền đang lênh đênh trên đại dương, ra khơi trong đêm. Một khung cảnh thật đẹp, bức tranh thuỷ mặc trong cảm nhận của tâm hồn người chiến sĩ.

Và đong đầy trong nỗi nhớ của nhà thơ về một vùng không gian xa ngái ngút ngàn. Giờ đây chỉ còn đọng lại mùi hương của núi rừng, cơm nếp vào mùa. Thực sự để lại niềm thương nhớ cho người đi xa:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Đắm mình trong không gian Tây Bắc lất phất phẳng phất một làn sương mờ ảo lắng đọng đầy chất thơ ấy là những tâm hồn thương nhớ da diết. Giọng thơ như bật ra nỗi niềm thương nhớ “Nhớ ôi”. Mùi thơm của cơm nếp vào mùa giữa hương rừng đại ngàn là những kỷ niệm đẹp trên những chặng đường hành quân lên Tây Bắc.

Một không gian mới của Tây Bắc bất chợt được mở ra khi mạch thơ đột ngột được rẽ lối. Một Tây Bắc mộng mơ mịn mát và ấm áp vô cùng. Để rồi những kỷ niệm nay xưa lại ùa về như một giấc mơ tuyệt vời:

Doanh trại bừng lên ngọn đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Cả một không gian núi rừng Tây Bắc vừa mới đó thôi dường như chìm trong bóng đêm âm u lạnh lẽo như một xứ sở nghìn năm không có dấu chân người. Bỗng dưng “bừng” lên bằng một nguồn sáng chói loà. Nguồn sáng ấy là bếp lửa trại sum vầy ấm áp tình quân dân. Những ánh sáng chói lọi luồn vào tâm hồn các chiến sĩ, soi rọi con người hào hoa, vẻ đẹp lãng mạn trong các anh. Ánh sáng chiếu rọi mọi nơi, bao trùm một không gian rực rỡ lung linh trong sắc lửa ấm áp, vui tươi. Hơn hết, qua đôi mắt của những chàng trai Tây Tiến, ánh sáng ấy đượm màu tình yêu, ánh sáng ngọt ngào như hội đuốc hoa. Qua nguồn sáng mộng mơ ấy đôi mắt của những người chiến binh thực sự hấp dẫn say mê trước vẻ đẹp “em”- những bông hồng miền sơn cước. Hình ảnh áo xiêm lộng lẫy, dáng điệu thì cứ e ấp như hoa rừng đang say sưa  ở trong tiếng khèn điệu múa. Trong phút chốc, cái khái niệm núi thẳm rừng hoa đâu còn nữa, chỉ còn đó là một thế giới thần tiên với bao nhạc điệu…. Chính những kỷ niệm đấy đâu có nhiều trong chiến tranh nên đã trở thành một hành trang quý giá xây lên lâu đài thơ, xây lên bao mộng ước và theo các anh đi khắp chiến trường. Như vậy, qua ngòi bút của thi nhân đã dựng lên phong cảnh Tây Bắc tuyệt vời thơ mộng. Và trên khung nền ấy, tâm hồn lãng mạn hào hoa của những người lính ngát hương hơn bao giờ hết.

phan tich bai tho tay tien cua nha tho quang dung rat hay - Phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng rất hay

Phân tích bài thơ Tây tiến

Trong bản nhạc viết về nỗi nhớ, gắn bó rồi chia xa nhà thơ nhớ về cảnh chiều sương và vẻ đẹp sông nước:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Chia xa, nhà thơ đã mang theo bao nỗi nhớ. Những giai điệu mang sắc thái câu hỏi: “có thấy, có nhớ”như để giãi bày nỗi nhớ khung cảnh “chiều sương” trên cao nguyên Châu Mộc. “Chiều sương” đã trở thành nét đặc trưng của Tây Bắc lưu lại trong nỗi nhớ với những ai đã từng gắn bó rồi chia xa. Nhìn những mảng hồn phơ phất quyến luyến với mảnh đất phương xa xứ lạ sao có thể quên “hồn lau”, những cánh hoa đong đưa bên bờ suối. Vậy là chỉ bằng vài nét bút chấm phá, nhà thơ Quang Dũng đã vẽ lên khung cảnh Tây Bắc với gam màu của sự nhung nhớ tạo nên một không gian thật nhẹ nhàng thật dịu êm. Và trên nền nhẹ dịu ấy, nổi bật lên hình ảnh con người Tây Bắc vừa khoẻ khoắn vừa mềm mại vừa nổi bật, hài hoà với vẻ đẹp đôi bờ. Có thể nói, Quang Dũng đã góp ý thơ nồng nàn ý vị để dựng lên một bức chân dung về người lính Tây Tiến, dũng cảm can trường thật đấy nhưng cũng thật mộng mơ.

Xem thêm:  Suy nghĩ của em về ca dao, dân ca Việt Nam

Sau những nét bút về thiên nhiên Tây Bắc, sau những tình cảm ấm áp quân dân, nỗi nhớ chơi vơi của nhà thơ đã chuyển sang hướng khác. Đó chính là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến…

 Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùng

Đến với đoàn binh Tây Tiến, nhà thơ không miêu tả gương mặt của người chiến sĩ riêng biệt nào hay với một tên cụ thể nào mà nhà thơ đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để tạc lên bức tượng đài tập thể, khát quát lên được nét đẹp chung của cả đoàn quân. Cái “bi” và cái” hùng” là hai chất liệu chủ yếu hoà quyện tạp nên vẻ đẹp bi tráng- hình thái chung của bức tượng đài. Trước hết, với nét bút giàu chất tạo hình, Quang Dũng đã khắc hoạ lên bức chân dung của người chiến sĩ Tây Tiến. Lính Tây Tiến phần lớn là chốn kinh thành, nhưng trong thơ của người thi sĩ xứ Đoài, không phải dáng vẻ hào hoa phong nhã mà thay vào đó là hình ảnh tiều tuỵ “đầu không mọc tóc” và nước da “ xanh màu lá”. Ba chữ “không mọc tóc” là Quang Dũng như đã đảo thế bị động thành thế chủ động ở chính trong giọng điệu của nó cứ y như là không thèm mọc tóc vậy. Câu thơ nghe ngang tàng,kiêu bạt và giọng bốc tếu rất lính tráng biết bao. Mà đâu phải là một mà là cả một “ đoàn binh”. Phải chăng từng nét chân dung tiều tuỵ kia là dấu ấn của những ngày tháng gian khổ mà những người chiến binh Tây Tiến và cả dân tộc đang trải qua? Ở đây, nhà thơ Quang Dũng không chỉ nói lên chân thực sự khắc nghiệt của chiến tranh mà còn phát huy sức mạnh nghệ thuật của thủ pháp tương phản đối lập, nôỉ bật lên hình ảnh hùng tráng tương phản với dáng vẻ tiều tuỵ, lính Tây Tiến vẫn sống mạnh mẽ tràn đầy khí phách “ dữ oai hùm”. Đó là hình ảnh ẩn dụ đã tô đậm một tinh thần quả cảm vượt lên trên hiện thực của người chiến sĩ. Thì ra dốc núi cheo leo, vượt thác xuống ghềnh vẫn không quật ngã được các anh. Những chàng lính chân vững vàng, kiên cường, bất khuất bước mạnh mẽ về phía trước bảo vệ biên cương đất nước.

Bên cạnh ý chí, nghị lực và tinh thần thép của người chiến sĩ Cách mạng, ta còn thấy thế giới tâm hồn đầy mộn mơ lãng mạn của những chàng trai Hà Thành:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Đây là hai câu thơ đẹp nhất trong bức tranh về hình tượng người lính Tây tiến.Người lính Tây Tiến dũng mãnh nhưng lại rất hào hoa. Ở họ có sự kết hợp hai vẻ đẹp: chiến sĩ và thi sĩ. Cái nhìn nhiều chiều sinh động của Quang Dũng soi chiếu xuyên qua vẻ oai hùng, dữ dằn là tâm hồn, trái tim rạo rực,khát khao yêu đương. Câu thơ viết về nỗi nhớ đã làm vẻ đẹp hào hoa nơi tâm hồn ấy được thăng hoa:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

( Đất nước- Nguyễn Đình Thi)

Còn với Quang Dũng, nhà thơ đã chọn cho mình một thứ ngôn ngữ biểu đạt riêng. Ba chữ “ dáng kiều thơm” gợi tả thật tinh tế hình ảnh những thiếu nữ Hà Nội duyên dáng yêu kiều, mang một vẻ đẹp sắc nước hương trời. Họ là tâm điểm của nỗi nhớ, niềm khát khao cháy bỏng nơi tâm hồn những con người xa quê. Chính nỗi nhớ, ước mơ hướng về một ngõ nhỏ, phố nhỏ về những dáng kiều thơm đã tiếp sức nâng bước cho những người lính trẻ vững vàng quyết tâm cho những người lính trẻ vững vàng, quyết tâm dấn thân và xả thân “ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Trên bươc đường hành quân , những người lính Tây Tiến mang một khát vọng thật cao đẹp, sống với giấc mộng “ biên cương”, giấc mộng chinh chiến. Hình ảnh “mắt trừng” thậm xưng để diễn tả trong đôi mắt ấy với ý chí sục sôi ngọn lửa với tráng trí ngất trời. Có thể nói, Quang Dũng đã làm sống lại cả hào khí một dân tộc bừng bừng sống lên cả hào khí của đất nước.Với hai nét “mộng” và “mơ”, Quang Dũng đã khám phá ra một đời sống tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến, những chàng ưu tú của dân tộc, hình ảnh các anh là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc này.

Là một hồn thơ chiến sĩ, Quang Dũng không chỉ tái hiện hiện thực gian khổ mà nhà thơ còn viết thật nhiều về sự hy sinh mà người Tây Tiến đã trải qua-vẻ đẹp của người lính toả sáng khi đối mặt với cái chết:

Xem thêm:  Biên bản bàn giao

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

            Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Câu thơ “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ” hiện lên như một bức tranh màu xám lạnh. Con đường biên cương viễn xứ, xa ngái ngàn trùng, giờ đây không còn được đo bằng cột mốc cây số mà được đo bằng nấm mồ nằm rải rác. Các anh đã anh dũng hy sinh nơi chiến trường, không quản ngại khó khăn, gian khổ, tử biệt sinh ly vì Tổ Quốc thân thương, vì những người yêu thương. Hình ảnh thơ mang một âm hưởng bi tráng như một câu hỏi thử thách lòng người, sự đau thương, sự xót xa và lòng biết ơn vô hạn. Không dừng lại đó, nhà thơ Quang Dũng  nhấn mạnh đến cái chết còn là để tô đậm  lẽ sống cao đẹp của những người lính Tây Tiến. Bằng lòng yêu nước sâu nặng, những người lính Tây Tiến sẵn sàng “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “ Đời xanh” là tuổi trẻ cuồng nhiệt với bao mộng ước khát khao. Là giai đoạn đáng lẽ các anh được hưởng một cuộc sống đúng nghĩa của tuổi trẻ được thoả mãn trong niềm ước mong của bản thân, của cá nhân mình. Nhưng khi Tổ Quốc có giặc ngoại xâm, loạn lạc, chung nhất các anh đều mang giấc mộng chinh chiến. Được ra chiến trường là niềm vinh dự là sự tự hào mà oai hùng, các anh chẳng tiếc “đời xanh”. Ý thơ như một lời thề son sắt, đầy tính chất khẳng định của những con người sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân để ôm lấy đất nước trong những chiều bão giông:

Chúng tôi đi chẳng tiếc đời xanh

               Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc

                         Ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc

Chứng kiến sự ra đi của những người đồng đội thân yêu, thêm một lần nữa Quang Dũng đã viết lên câu thơ đầy cảm xúc:

Áo bào thay chiếu anh về đất

           Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Mỗi khi viết về sự ra đi của đồng đội, Quang Dũng đã sử dụng nói giảm, nói tránh “ không bước nữa”, “ về đất” để xoa dịu nỗi mất mát đau đớn khôn nguôi. Anh “ về đất” là  về trong vòng tay người mẹ hiền Tổ quốc. Dù các anh hy sinh trên chiến trường nơi xa “ viễn xứ”, xa xôi hẻo lánh , nhưng “ về đất” là thể xác linh hồn các anh hoà vào chiều rừng, khắc vào đá núi. Viết về sự viễn huyết, sự ra đi đồng đội, giọng thơ Quang Dũng bộc lộ niềm xót xa nhưng đẹp hơn thế là tấm lòng cảm phục gợi ca bất tử hoá -những người con đã hy sinh cho đất mẹ. Góp phần thể hiện khúc ca bi tráng ấy là một hệ thống từ hán việt “ đoàn binh”, “ quân xanh”, “ áo bào”, “ độc hành”,…và hơn hết âm hưởng ấy được nhà thơ Quang Dũng đẩy lên đỉnh cao bi mà tráng qua câu kết đoạn:

Sông mã gầm lên khúc độc hành

Sông Mã – dòng sông xuất hiện ngay đầu bài thơ, là hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhắc đến trong nỗi nhớ da diết của mình. Dòng sông là nơi đón các anh đầu tiên đến với chiến trừơng miền Tây, cũng là nơi tiễn biệt các anh về với hơi ấm đất mẹ. Xuyên suốt từ đâu đến cuối, Sông Mã đã cùng đồng hành với người lính, chứng kiến và gắn bó suốt một khoảng thời gian khó khăn gian khổ mà oai hùng. Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá với động từ mạnh mẽ, dữ dội: “ gầm lên”.  Chứng kiến những người lính trẻ ngã xuống nơi chiến trường bằng tình yêu nước, bằng sự kiêu hùng hãnh diện, bảo vệ Tổ quốc, dòng sông Mã không kìm nổi sự đau xót, bi phẫn như lưỡi dao sắc nhọn khứa vào tim mà gầm lên, mà gào lên,…Thật đau thương! Nhưng giọng thơ không nghiêng về sắc buồn đau bi luỵ mà buồn đau nhưng vẫn hùng tráng, oai phong “ khúc độc hành”. Đó là khúc ca hào hùng dành cho những người anh hùng, lẫm liệt, khúc ca ngợi tinh thần, chí khí của người chiến sĩ, khúc nhạc biết ơn tận đáy lòng và mãi mãi khắc ghi công lao to lớn của những người chiến sĩ.

Bốn câu thơ cuối cùng bao trùm không khí của lời thề: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Lời thề mang dáng dấp của những đấng trượng phu, đầu đội trời, chân đạp đất:

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Tinh thần ra đi không hẹn ước ngày về là hào khí của cả dân tộc. Rồi lịch sử sẽ qua đi, mùa xuân ấy không bao giờ trở lại nhưng tinh thần ra đi không hẹn ước ngày trở về và mùa xuân ấy mãi mãi sống trong lòng dân tộc:

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Mùa xuân ấy – mùa xuân 1947 thành lập trung đoàn Tây Tiến. Mùa xuân ấy biết bao tuổi trẻ dành cho đất nước, nằm lại chiến trường biên cương. Hiện thực bốn câu thơ nói nên sự hy sinh nhưng lại vang lên bản anh hùng ca với giai điệu hào hùng để lại dư âm trong lòng người đọc.

Với thể thơ thất ngôn trang trọng viết về nỗi nhớ, về những người lính Tây Tiến, cùng với âm hưởng phong phú, da diết mà hào hùng, khí thế của cả một dân tộc. Nhà thơ đã tấu lên một bản nhạc với giai điệu nức lòng người nghe, có vui có buồn có mất mát có đau thương. Nhưng trên tất cả là niềm hạnh phúc và sự tự hào nhường nào.

Qua bài thơ, người đọc thấy cái tài, sự tinh tế và lãng mạn trong thơ Quang Dũng, và sự bất tử theo thời gian của bài thơ:

Tây tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

    Vẫn sống muôn đời với núi sông

Hoa